Discover millions of ebooks, audiobooks, and so much more with a free trial

Only $11.99/month after trial. Cancel anytime.

Thời Đại Thứ Tư
Thời Đại Thứ Tư
Thời Đại Thứ Tư
Ebook496 pages8 hours

Thời Đại Thứ Tư

Rating: 0 out of 5 stars

()

Read preview

About this ebook

Cuốn sách giải mã những niềm tin cốt lõi đằng sau những quan điểm đa dạng về người máy, công việc, AI và ý thức; đồng thời mổ xẻ chi tiết các giả định, phân tích những tác động tiềm tàng của AI lên mọi cấu trúc xã hội.

 

Cuốn sách gồm 5 phần được chia thành 26 chương nhỏ. Trong đó, tác giả đưa ra nhiều thông tin độc đáo về bối cảnh lịch sử, sự tiến hoá về mặt sinh học cũng như văn hoá và xã hội của loài người, qua đó làm rõ mối quan hệ phức tạp và dai dẳng của con người với những công cụ tiết kiệm sức lao động.

 

"Thời đại Thứ Tư" thảo luận những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực rô-bốt và AI như: Trí tuệ nhân tạo sẽ đạt được "trí tuệ" như thế nào? Máy móc có thể có ý thức, óc sáng tạo, trí tưởng tượng, trí thông minh cảm xúc, xã hội và sự độc đáo như con người không? AI có khiến việc làm biến mất không?...

 

Nội dung sách không quá nặng về kiến thức kỹ thuật, mà tập trung làm rõ những vấn đề đạo đức, xã hội, triết học… liên quan đến trí tuệ nhân tạo.

 

Sâu sắc. Đa chiều. Tỉnh táo. Lạc quan. Byron Resee còn mang đến cho "Thời đại Thứ Tư" góc nhìn chiến lược của một nhà kinh doanh, sự thấu hiểu của một chuyên gia công nghệ, cùng khả năng dẫn dắt người đọc bằng giọng văn lôi cuốn của một cây viết chuyên nghiệp.

LanguageTiếng việt
PublisherFirst News
Release dateAug 29, 2023
ISBN9798223037880
Thời Đại Thứ Tư

Related to Thời Đại Thứ Tư

Related ebooks

Reviews for Thời Đại Thứ Tư

Rating: 0 out of 5 stars
0 ratings

0 ratings0 reviews

What did you think?

Tap to rate

Review must be at least 10 words

    Book preview

    Thời Đại Thứ Tư - Byron Reese

    MỤC LỤC

    Lời nói đầu

    Lời giới thiệu

    PHẦN I - HÀNH TRÌNH DÀI VÀ GIAN KHỔ CỦA CON NGƯỜI ĐỂ ĐƯỢC NHƯ HÔM NAY

    CÂU CHUYỆN VỀ THẦN PROMETHEUS

    1. Thời đại Thứ Nhất: LỬA VÀ NGÔN NGỮ

    2. Thời đại Thứ Hai: NÔNG NGHIỆP VÀ ĐÔ THỊ

    3. Thời đại Thứ Ba: CHỮ VIẾT VÀ XE CỘ

    4. Thời đại Thứ Tư: NGƯỜI MÁY VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

    5. BA CÂU HỎI CƠ BẢN

    PHẦN II - TRÍ TUỆ NHÂN TẠO HẸP VÀ RÔ-BỐT

    CÂU CHUYỆN VỀ JOHN HENRY

    6. TRÍ TUỆ NHÂN TẠO HẸP

    7. RÔ-BỐT

    8. NHỮNG THỬ THÁCH VỀ KỸ THUẬT

    9. RÔ-BỐT CÓ TƯỚC ĐOẠT HẾT CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TA?

    10. CÓ LOẠI CÔNG VIỆC NÀO KHÔNG DÀNH CHO RÔ-BỐT KHÔNG?

    11. NHỮNG THỬ THÁCH LỚN

    12. RÔ-BỐT TRONG CHIẾN TRANH

    PHẦN III - TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TỔNG QUÁT

    CÂU CHUYỆN VỀ PHÙ THỦY TẬP SỰ

    13. BỘ NÃO CON NGƯỜI

    14. AGI

    15. CHÚNG TA CÓ NÊN TẠO RA AGI KHÔNG?

    PHẦN IV - Ý THỨC CỦA MÁY TÍNH

    TÍN NGƯỠNG SÙNG BÁI HÀNG HÓA

    16. TRI GIÁC

    17. Ý CHÍ TỰ DO

    18. Ý THỨC

    19. TÁM GIẢ THUYẾT VỀ Ý THỨC: MÁY TÍNH CÓ THỂ TRỞ NÊN CÓ Ý THỨC HAY KHÔNG?

    20. MÁY TÍNH CÓ THỂ ĐƯỢC CẤY VÀO NÃO NGƯỜI KHÔNG?

    21. TÁI ĐỊNH NGHĨA NHÂN LOẠI?

    PHẦN V - CON ĐƯỜNG TƯƠNG LAI

    CÂU CHUYỆN VỀ JEAN-LUC PICARD

    22. CUỘC SỐNG TRONG THỜI ĐẠI THỨ TƯ

    23. GIẢI QUYẾT TẤT CẢ VẤN ĐỀ KỸ THUẬT

    24. CÁI CHẾT VÀ SỰ BẤT TỬ

    25. ĐIỀU TỒI TỆ GÌ CÓ THỂ XẢY RA?

    26. THỜI ĐẠI THỨ NĂM

    Original title: THE FOURTH AGE

    Written by Byron Reese

    Copyright © 2018 Byron Reese

    Vietnamese edition © 2023 First News – Tri Viet Publishing Co., Ltd.

    Published by arrangement with Folio Literary Management, LLC and The Grayhawk Agency Ltd.

    All rights reserved.

    Tác phẩm: THỜI ĐẠI THỨ TƯ

    Tác giả: Byron Reese

    Công ty First News – Trí Việt giữ bản quyền xuất bản và phát hành ấn bản tiếng Việt trên toàn thế giới theo hợp đồng chuyển giao bản quyền với Folio Literary Management, LLC thông qua The Grayhawk Agency Ltd.

    Bất cứ sự sao chép nào không được sự đồng ý của First News đều là bất hợp pháp và vi phạm Luật Xuất bản Việt Nam, Luật Bản quyền Quốc tế và Công ước Bảo hộ Bản quyền Sở hữu Trí tuệ Berne.

    Biên tập viên First News: Ngọc Dung

    Quý độc giả có nhu cầu liên hệ, vui lòng gửi email về:

    Bản thảo và bản quyền: rights@firstnews.com.vn

    Phát hành: triviet@firstnews.com.vn

    CÔNG TY VĂN HÓA SÁNG TẠO TRÍ VIỆT – FIRST NEWS

    11H Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh

    Ngôi nhà Hạt Giống Tâm Hồn, Đường Sách Nguyễn Văn Bình, Quận 1, TP.HCM

    Tel: (84.28) 38227979 – 38227980

    www.firstnews.com.vn

    www.hatgiongtamhon.vn

    facebook.com/firstnewsbooks

    facebook.com/hatgiongtamhon

    Lời nói đầu

    Người máy. Công việc. Tự động hóa. Trí tuệ nhân tạo. Máy tính có ý thức. Siêu trí tuệ. Sự giàu có. Một tương lai không có việc làm. Những con người vô dụng. Không còn sự thiếu thốn. Những cỗ máy sáng tạo. Người máy thống trị. Của cải không giới hạn. Không còn việc làm. Một tầng lớp vĩnh viễn ở đáy xã hội.

    Một số cụm từ và khái niệm trên có thể đã xuất hiện trong các bản tin trực tuyến bạn đọc hằng ngày. Đôi khi, đó là những câu chuyện tích cực và tràn đầy hy vọng về tương lai. Nhưng cũng có lúc, đó là những câu chuyện đen tối và đáng sợ. Sự đối lập này khiến chúng ta bối rối. Tất cả chuyên gia trong những bài viết đó đều là những người thông minh và nắm nhiều thông tin, nhưng những dự đoán họ đưa ra về tương lai không phải chỉ hơi khác nhau, mà là rất khác biệt và hoàn toàn đối lập với nhau. Tại sao Elon Musk, Stephen Hawking và Bill Gates sợ trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence – AI) và bày tỏ nỗi lo ngại AI sẽ trở thành mối đe dọa đối với sự tồn tại của loài người trong tương lai gần? Trong khi đó, tại sao một nhóm chuyên gia cũng nổi tiếng không kém với những cái tên như Mark Zuckerberg, Andrew Ng và Pedro Domingos lại thấy quan điểm lo sợ trên xa vời đến mức không đáng để bàn luận. Mark Zuckerberg thậm chí đã gọi những người đang rao giảng về kịch bản ngày tận thế là những kẻ vô trách nhiệm, còn Andrew Ng – một trong những bộ óc thông minh nhất về AI hiện nay – gọi những lo lắng đó giống như lo bò trắng răng. Sau khi Elon Musk được trích dẫn rộng rãi với câu nói AI là một mối đe dọa cơ bản đối với sự tồn vong của văn minh nhân loại, Pedro Domingos – nhà nghiên cứu hàng đầu và tác giả nhiều quyển sách về AI – đã đăng lên Tweeter: Một từ thôi: ngao ngán. Cả bên lo sợ lẫn bên không lo sợ đều tràn đầy tự tin với quan điểm của mình và tỏ thái độ khinh miệt với phe đối lập.

    Trong cuộc luận bàn về rô-bốt và tự động hóa, tình trạng tương tự cũng diễn ra. Các chuyên gia của lĩnh vực này cũng không thể đạt đến một sự đồng thuận. Một số người cho rằng tất cả việc làm sẽ bị hệ thống tự động hóa cướp mất, hoặc ít nhất là chúng ta sắp bước vào một thời kỳ Đại Suy thoái kéo dài, trong đó một bộ phận người lao động sẽ không thể cạnh tranh nổi với lực lượng lao động bằng máy, trong khi phần còn lại của xã hội sẽ sống trong sự xa hoa và dư dả với những công việc công nghệ cao của tương lai. Trước những lo ngại này, những chuyên gia khác chỉ cười khẩy và viện dẫn những thành tựu vang dội của quá trình tự động hóa trong quá khứ đã giúp gia tăng năng suất cũng như mức lương của công nhân. Dù hầu như không bao giờ tranh luận bằng nắm đấm, nhưng các nhóm chuyên gia này rất thường xuyên công kích, thóa mạ nhau.

    Sau cùng, khi xem xét câu hỏi liệu máy tính có trở nên có ý thức và sau đó là có sự sống hay không, giới chuyên gia lại tiếp tục bất đồng ý kiến với nhau. Một số người tin việc máy tính có thể có ý thức là một sự thật hiển nhiên, và bất cứ quan điểm nào khác đều chỉ là sự suy diễn ngớ ngẩn. Những người khác dứt khoát không đồng ý; họ nói rằng máy tính và thực thể sống là hai thứ rất khác nhau, rằng cỗ máy sống là một ý tưởng mâu thuẫn về mặt ngữ nghĩa.

    Đối với những người theo dõi toàn bộ cuộc tranh luận này, kết quả cuối cùng họ nhận được là sự bối rối và thất vọng. Nhiều người đã giơ tay đầu hàng trước những quan điểm tranh luận chói tai và kết luận nếu những người ở tuyến đầu của các lĩnh vực công nghệ này không thể đồng tình với nhau về những gì sẽ xảy ra, thì những người như chúng ta còn biết tin vào đâu? Họ bắt đầu nhìn về tương lai với nỗi lo sợ và hoang mang, chấp nhận rằng những câu hỏi đang khiến họ choáng ngợp vốn dĩ không có câu trả lời.

    Có con đường nào dẫn chúng ta thoát khỏi tình cảnh này không? Tôi nghĩ là có. Con đường đó bắt đầu khi chúng ta nhận ra những chuyên gia này bất đồng ý kiến không phải vì họ biết những thứ khác nhau, mà vì họ tin vào những điều khác nhau.

    Chẳng hạn, những người dự đoán chúng ta sẽ làm ra những chiếc máy tính có ý thức đưa ra nhận định đó không phải vì họ biết điều gì đó người khác không biết về ý thức và nhận thức, mà vì họ tin vào một quan niệm gì đó rất phổ biến: con người cơ bản là những cỗ máy. Nếu con người là những cỗ máy, hoàn toàn hợp lý khi nói sớm muộn gì chúng ta cũng có thể tạo ra một con người bằng máy. Trái lại, những ai tin rằng máy móc sẽ không bao giờ có được ý thức thường kiên quyết giữ quan điểm này vì họ không bị thuyết phục bởi lập luận con người đơn thuần là những sinh vật cơ học.

    Và đó chính là những gì quyển sách này sẽ đề cập: giải mã những niềm tin cốt lõi vốn là nền tảng củng cố các quan điểm khác nhau về người máy, công việc, AI và ý thức. Mục tiêu của tôi là dẫn dắt độc giả qua những vấn đề hóc búa này, mổ xẻ tất cả những giả định đã hình thành nên các quan điểm được giới chuyên gia tuyên bố một cách đầy tự tin và chắc chắn.

    Quyển sách này hoàn toàn không nói về suy nghĩ của riêng tôi đối với những vấn đề này. Mặc dù tôi không cố tình che giấu nhưng quan điểm cá nhân của tôi hầu như cũng không quan trọng đối với quá trình bạn đọc quyển sách này. Mục tiêu của tôi là bạn sẽ đóng quyển sách này lại với sự hiểu biết thấu đáo về việc niềm tin của bạn có thể tác động thế nào đến cách bạn nhìn nhận những câu hỏi được đề cập. Sau đó, khi bạn nghe một gã khổng lồ ở Thung lũng Silicon hoặc giáo sư nổi tiếng hoặc học giả từng đoạt giải Nobel đưa ra những tuyên bố đầy tự tin về rô-bốt hoặc công việc hoặc AI, bạn sẽ lập tức hiểu niềm tin nào đã khiến họ đưa ra những tuyên bố đó.

    Một hành trình khám phá như thế nên bắt đầu từ đâu? Tất nhiên là từ quá khứ, một quá khứ xa xôi của thời điểm ngôn ngữ được khai sinh. Những câu hỏi chúng ta sẽ tìm hiểu trong quyển sách này không xoay quanh những thuật ngữ về bán dẫn, tế bào thần kinh hay thuật toán… mà chính là về bản chất của hiện thực, nhân loại và tâm trí. Sự khó hiểu nảy sinh khi chúng ta bắt đầu với câu hỏi Người máy sẽ cướp những công việc nào của con người? thay vì Con người là gì?. Chỉ khi có thể trả lời câu hỏi thứ hai, chúng ta mới giải đáp được câu hỏi thứ nhất một cách đầy đủ.

    Mời bạn tham gia cùng tôi trong chuyến đi nhìn lại 100.000 năm lịch sử loài người, thảo luận những câu hỏi lớn xuyên suốt chuyến đi đó và khám phá tương lai phía trước. Quyển sách này là một hành trình. Cảm ơn độc giả cùng đồng hành với tôi.

    Byron Reese

    Thành phố Austin, bang Texas

    Lời giới thiệu

    Đặc điểm khác biệt nhất của thế kỷ trước hoặc đại loại thế dường như nằm ở số lượng khổng lồ của những thay đổi đã diễn ra. Hàng chục tiến bộ công nghệ, nếu không phải là hàng trăm, được cho là đã cách mạng hóa cuộc sống của chúng ta. Những lĩnh vực có nhiều sự đổi mới nhất bao gồm ô-tô, hàng không, truyền hình, máy tính cá nhân, Internet và điện thoại di động. Thay đổi diễn ra ở mọi nơi, trong mọi ngành nghề. Chúng ta đã biết cách khai thác năng lượng nguyên tử, bay vào không gian, phát minh ra thuốc kháng sinh, diệt trừ bệnh đậu mùa và giải mã bộ gien người.

    Nhưng xét dưới góc nhìn tổng quát về lịch sử loài người, chúng ta không có nhiều thay đổi trong 5.000 năm qua. Giống như những người đã sống cách nay 5.000 năm, chúng ta cũng có cha, mẹ, con cái, trường học, chính phủ, tôn giáo, chiến tranh và hòa bình. Chúng ta vẫn vui mừng trước những sinh linh mới chào đời và tiếc thương người ra đi. Mỗi người chúng ta dù thuộc nền văn hóa nào trên thế giới cũng đều biết đến thể thao, cưới hỏi, nhảy múa, trang sức, hình xăm, thời trang, tin đồn, giai cấp xã hội, nỗi lo sợ, tình yêu, niềm vui, hạnh phúc và hưng phấn. Dưới những lăng kính này, con người chúng ta thật sự không thay đổi nhiều suốt hàng thiên niên kỷ qua. Chúng ta vẫn đi làm vào mỗi sáng; có thay đổi chăng là cách chúng ta đi. Ở Assyria cổ đại, những đứa trẻ mới biết đi thường chơi với con ngựa gỗ nhỏ có bánh xe và một sợi dây để kéo. Ở Hy Lạp cổ đại, các bé trai thường chơi trò kéo co. Ai Cập cổ đại nổi tiếng với các loại mỹ phẩm; và người Ba Tư sống cách nay hàng ngàn năm cũng mừng sinh nhật như chúng ta hiện giờ, cũng tụ họp ăn uống, tặng quà và thưởng thức những món tráng miệng đặc biệt.

    Không, điều đáng chú ý về thời đại của chúng ta không phải là những thay đổi chúng ta thấy, mà là những thay đổi chúng ta không thấy. Điều thật sự thú vị là chúng ta khá giống với tổ tiên mình. Vào thời La Mã cổ đại, võ sĩ giác đấu là những ngôi sao đại diện, được trả tiền để ca ngợi những món vũ khí họ mang theo ngay trước khi bước vào cuộc tỷ thí: Đó là lý do vì sao tôi dùng thanh gươm Antinius. Mọi người sẽ không thể tìm ra một thanh gươm tốt hơn với bất kỳ giá nào. Và tương tự thời đại của chúng ta, hàng ngàn năm trước cũng có những người sẵn sàng thực hiện hành động phá hoại gây hậu quả khôn lường chỉ để được nổi danh; chẳng hạn, trong vụ việc xảy ra vào ngày 21 tháng Bảy năm 356 trước Công nguyên, kẻ phóng hỏa tên Herostratus đã thiêu rụi đền Nữ thần Artemis ở Thành Ephesus – một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại – đơn giản vì muốn có sự nổi tiếng bất diệt. Sau lần đó, một đạo luật đã được ban hành để cấm người ta nhắc đến cái tên Herostratus, nhưng rõ ràng kẻ phá hoại này đã có được điều hắn ta muốn.

    Nếu đến thăm một người bạn ở thời cổ đại, có thể bạn sẽ thấy một cái đầu sư tử bằng đồng ngậm một chiếc vòng gắn trên cửa ra vào, được dùng để thông báo cho chủ nhà biết có khách đến. Nếu dự một đám cưới ở 5.000 năm trước, có thể bạn sẽ tham gia ném gạo để chúc cho cặp vợ chồng mới cưới gặp nhiều may mắn. Đến tận bây giờ, khi đọc tin các nhà khảo cổ tìm thấy những viên bi chì được dùng để bắn ná ở thời cổ đại với mỗi viên đều được khắc từ catch (bắt lấy), chúng ta vẫn hiểu được sự hài hước trong đó.

    Những người sống trong thời cổ đại cũng giống như chúng ta ngày nay. Để hiểu rõ hơn về những bản năng bất biến của con người, bạn có thể tìm đọc quyển Characters (tạm dịch: Những loại người) được triết gia Hy Lạp Theophrastus viết cách nay 2.300 năm. Ông châm biếm loài người và phân chia chúng ta thành những loại người như Flatterer (người hay xu nịnh, bợ đỡ), Boor (người thô lỗ, quê mùa), Chatty Man (người thích tán dóc)… Nếu bạn biết một người hay chụp và đăng ảnh bữa ăn của họ lên mạng, đó có thể là loại người mà Theophrastus gọi là Garrulous Man (kẻ ba hoa, lắm lời) – người sẽ mở đầu câu chuyện bằng một bài diễn văn dài lê thê về những cái tốt của vợ mình, huyên thiên về giấc mơ đêm trước, kể tên từng món anh ta đã ăn trong bữa tối, rồi kết thúc bằng ta của hiện tại không phải là ta của quá khứ. Trong quyển sách của Theophrastus còn có mô tả về Stupid Man (người ngu ngốc), loại người bị bỏ lại trong rạp khi đi xem kịch vì ngủ quên, đến khi tỉnh dậy lúc nửa đêm sau một giấc ngủ ngon lành thì đi về nhà trong trạng thái mơ mơ màng màng, mở nhầm cửa và bị con chó nhà hàng xóm cắn cho một trận.

    Không, so với toàn bộ chiều dài lịch sử, thời đại của chúng ta có rất ít thay đổi. Trên thực tế, tôi vẫn cho rằng từ trước đến nay, chúng ta chỉ có ba lần thay đổi thật sự. Và mỗi lần thay đổi đều là do công nghệ – không phải một công nghệ đơn lẻ mà là tập hợp những công nghệ có liên quan đến nhau, làm thay đổi con người chúng ta về cơ bản, về lâu dài và thậm chí là về mặt sinh học. Vậy đó, đến nay chúng ta chỉ có ba lần thay đổi lớn mà thôi.

    Và quyển sách này sẽ đề cập đến lần thay đổi thứ tư.

    PHẦN I

    HÀNH TRÌNH DÀI VÀ GIAN KHỔ CỦA CON NGƯỜI ĐỂ ĐƯỢC NHƯ HÔM NAY

    CÂU CHUYỆN VỀ THẦN PROMETHEUS

    Câu chuyện về thần Prometheus là một câu chuyện cổ, đã tồn tại ít nhất 3.000 năm nay, cũng có thể lâu hơn. Chuyện kể rằng Prometheus và em trai Epimetheus là hai người khổng lồ (con của những vị thần đã xuất hiện trước cả các vị thần trên đỉnh Olympia mà chúng ta vẫn thường nghe tới) được giao nhiệm vụ tạo ra các sinh vật trên trái đất. Hai anh em họ đã thực hiện nhiệm vụ đó bằng đất sét. Epimetheus nhanh chóng tạo ra các loài thú bằng cách nặn ra hình hài rồi gán cho mỗi con những thuộc tính mà thần Zeus đã trao cho họ. Một số loài có tính gian xảo, một số loài có khả năng ngụy trang, một số loài có răng nanh hung tợn và một số loài biết bay. Trong khi đó, Prometheus lại rất cẩn thận và dành nhiều thời gian để tạo ra một loài duy nhất là con người, với hình dáng được nhào nặn theo hình ảnh của các vị thần, có dáng đi thẳng. Đến khi làm xong, Prometheus phát hiện Epimetheus đã gán hết các đặc tính cho những loài động vật ông tạo ra. Người nghe kể chuyện gần như có thể hình dung cảnh Prometheus nhìn vào chiếc hộp rỗng đã bị Epimetheus lấy hết các đặc tính và thốt lên: Em thật sự không chừa lại chút nào sao?. Sau đó, Prometheus quyết định làm một việc cấm kỵ: trao lửa cho con người. Vì sự vi phạm nghiêm trọng này, Prometheus đã phải trả giá đắt: ông bị thần Zeus kết tội, trói vào một tảng đá và để một con đại bàng moi gan – bộ phận sẽ tự hồi phục vào mỗi đêm và lại bị moi tiếp vào ngày hôm sau. Prometheus đã phải chịu đựng hình phạt qua hàng ngàn năm, cho đến khi ông được giải thoát bởi Hercules.

    1

    Thời đại Thứ Nhất:

    LỬA VÀ NGÔN NGỮ

    Dù không ai biết lần đầu tiên có người biết sử dụng sức mạnh của lửa là khi nào, nhưng chúng ta có bằng chứng khá rõ ràng cho thấy khoảng 100.000 năm trước, hầu như con người đều đã biết cách tận dụng lửa. Và trong những câu chuyện thần thoại Hy Lạp về Prometheus, thật dễ để nhận ra ngọn lửa đã thay đổi chúng ta nhiều đến thế nào. Lửa chính là công nghệ đa chức năng đầu tiên. Lửa cung cấp ánh sáng, và vì động vật sợ lửa nên lửa cũng giúp đảm bảo sự an toàn. Tính di động của lửa đồng nghĩa với việc con người có thể di cư đến những vùng lạnh hơn mà vẫn có thể giữ ấm. Nhưng nhìn chung, lợi ích lớn nhất của lửa chính là giúp con người nấu ăn.

    Tại sao công dụng này của lửa lại quan trọng đến vậy? Nấu ăn giúp chúng ta tăng đáng kể lượng ca-lo mà mình có thể hấp thu. Việc chế biến thịt không chỉ làm cho nó trở nên dễ nhai hơn, mà quan trọng là còn giải phóng các protein chứa trong thịt và khiến nó dễ tiêu hóa hơn. Thêm vào đó, nhờ có lửa mà rất nhiều loại thực vật trước đó không ăn được bỗng trở thành nguồn thực phẩm, vì lửa có khả năng phân giải các chất xơ và tinh bột khó tiêu hóa trong thực vật. Nói cách khác, lửa có thể được con người thuê ngoài để xử lý một phần quá trình tiêu hóa. Ngày nay, rất khó để chúng ta hấp thu đủ lượng ca-lo nếu chỉ ăn thực phẩm tươi sống, vì có rất nhiều chất cơ thể chúng ta không tiêu hóa được.

    Chúng ta đã làm gì với toàn bộ lượng ca-lo mà mình vừa hấp thụ thêm nhờ lửa? Chúng ta sử dụng nguồn năng lượng mới đó để phát triển bộ não đến mức phức tạp chưa từng có. Chỉ trong một thời gian ngắn, con người đã tiến hóa và có số lượng tế bào thần kinh tăng gấp ba lần so với các loài khỉ hoặc tinh tinh. Nhưng một bộ não như vậy cũng giống như một chiếc siêu xe của Ý: có thể tăng tốc từ 0 lên 100 ki-lô-mét trên giờ chỉ trong nháy mắt, nhưng chắc chắn cũng tiêu thụ một lượng xăng đáng kể. Trên thực tế, con người chúng ta tiêu thụ một lượng ca-lo xa xỉ lên đến 20% những gì chúng ta hấp thu chỉ để nuôi dưỡng bộ não đã được nâng cấp của mình. Có rất ít loài sử dụng dù chỉ là phân nửa mức năng lượng đó để nuôi dưỡng phần trí tuệ của chúng. Xét trên quan điểm sinh tồn, đó là một sự đặt cược đầy táo bạo. Nói theo thuật ngữ của môn xì phé (poker), chúng ta đã đặt hết (all in) tiền cược vào bộ não và đã thắng, bởi bộ não tân tiến hơn của chúng ta đã tạo tiền đề cho sự ra đời của một công nghệ mới: ngôn ngữ. Ngôn ngữ là bước nhảy vọt mà nhà sử học Will Durant nói là đã biến chúng ta thành con người.

    Vậy nên, lửa chính là khởi nguồn của câu chuyện lãng mạn kéo dài đến tận hôm nay giữa chúng ta với công nghệ. Vậy công nghệ là gì? Xuyên suốt quyển sách này, tôi dùng thuật ngữ công nghệ để nói đến việc áp dụng kiến thức vào một vật, một quy trình hoặc một kỹ thuật. Công nghệ dùng để làm gì? Chủ yếu là để nâng cao khả năng của con người. Công nghệ tạo điều kiện cho chúng ta làm những việc trước đây ta không thể làm, hoặc làm tốt hơn những việc ta đã làm được.

    Tất nhiên, con người đã sử dụng những công nghệ đơn giản trước khi có lửa, chính xác là trước đó hơn 2 triệu năm. Nhưng lửa thì rất khác và đặc biệt. Lửa trông giống như một loại phép thuật. Ngay cả trong thời hiện đại, người đi cắm trại vẫn thường ngồi quanh đống lửa trại vào ban đêm và nhìn chăm chăm vào đó như bị thôi miên bởi những vũ điệu kỳ lạ của nó.

    Công nghệ ngôn ngữ mạnh mẽ hơn nhiều đã giúp chúng ta trao đổi thông tin. Chúng ta có thể dùng ngôn ngữ để tóm tắt những gì mình đã học được, ví dụ như con hổ không thích bị kéo đuôi, thành những kiến thức có thể được truyền đạt một cách rõ ràng từ người này sang người khác, thay vì dừng lại ở người đàn ông chỉ-còn-một-tay đã nắm đuôi con hổ. Bên cạnh đó, ngôn ngữ còn tạo cho chúng ta khả năng hợp tác – một trong những năng lực đặc biệt của loài người chúng ta. Nếu không có ngôn ngữ thì mười con người cũng không thể nào địch nổi một con voi ma mút. Nhưng nhờ có ngôn ngữ, những người đó có thể phối hợp với nhau theo một cách khiến họ gần như bất khả chiến bại.

    Ngôn ngữ xuất hiện là vì bộ não của chúng ta đã trở nên to hơn; và trong một vòng lặp tích cực, chính ngôn ngữ đã khiến não bộ của chúng ta phát triển to hơn nữa, bởi có những loại ý nghĩ mà chúng ta sẽ không thể nào nghĩ ra nếu không có từ ngữ. Suy cho cùng, từ ngữ là những biểu tượng đại diện cho ý nghĩ, và khi không áp dụng công nghệ lời nói, chúng ta có thể kết hợp cũng như điều chỉnh những ý nghĩ đó theo những cách người khác không thể biết được.

    Một món quà khác của ngôn ngữ là câu chuyện. Các câu chuyện có vai trò rất quan trọng đối với nhân loại vì chúng giúp chúng ta hình thành trí tưởng tượng, điều kiện tiên quyết để tiến bộ. Các câu hò vè – phiên bản sơ khai của những bài thơ, tình ca, nhạc hip-hop ngày nay – chắc hẳn là những tác phẩm đầu tiên của loài người biết nói chuyện. Có một lý do để lý giải vì sao những gì có vần điệu lại dễ nhớ hơn những thứ không có, tương tự lý do vì sao chúng ta dễ nhớ lời của một bài hát hơn là một trang văn xuôi. Bộ não của con người được lập trình như thế, và chính thực tế này đã giúp những tác phẩm như The Iliad (Trường ca Iliad) và The Odyssey (Trường ca Odyssey) được bảo tồn dưới dạng truyền miệng trước khi chữ viết được phát minh. Cơ chế này của não bộ cũng là lý do vì sao tôi vẫn nhớ được bài hát mở đầu của những chương trình truyền hình kinh điển dù tôi đã không còn xem chúng hàng chục năm rồi. Đáng chú ý là bản thân những bài hát đó cũng là câu chuyện, thậm chí trong lời bài hát còn có những từ như story (câu chuyện) và tale (giai thoại). Nhiều người đoán rằng những câu chuyện xa xưa nhất – như The epic of Gilgamesh (Sử thi Gilgamesh) chẳng hạn – có thể đã tồn tại dưới dạng truyền miệng suốt hàng ngàn năm, cho đến khi chữ viết được phát minh thì mới được ghi chép lại.

    Chúng ta không biết nhiều về ngôn ngữ sơ khai nhất mà chỉ có thể phỏng đoán từ những ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng ngày nay. Ngôn ngữ đầu tiên của loài người đã mất từ lâu, và nhiều ngôn ngữ xuất hiện sau đó cũng vậy. Chúng ta phân loại ngôn ngữ hiện đại thành từng nhóm ngữ hệ được cho là bắt nguồn từ ngôn ngữ nguyên thủy. Một trong những ngữ hệ như thế là Ấn-Âu nguyên thủy (Proto-Indo-European – PIE), tiền thân của 445 ngôn ngữ ngày nay, bao gồm tiếng Hindi, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Đức và tiếng Punjab.

    Các nhà ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ nguyên thủy bằng cách xem xét sự tương đồng giữa từ vựng của các ngôn ngữ. Năm 2013, những nhà nghiên cứu của Đại học Reading ở nước Anh đã áp dụng kiểu phân tích này để tìm ra những từ cổ nhất mà đến nay chúng ta vẫn còn sử dụng. Họ phát hiện ra 23 từ được bảo tồn lâu nhất với cách phát âm gần như không đổi suốt 15.000 năm, có nghĩa là những từ này có liên quan đến loại ngôn ngữ tồn tại trước cả PIE. Trong nhóm từ cổ xưa nhất đó có những từ như man (đàn ông), mother (mẹ), two (hai), three (ba), five (năm), hear (nghe), ashes (tro) và worm (giun). Từ cổ nhất có lẽ là mama (mẹ) hoặc một từ nào đó tương tự, vì phần lớn những từ có nghĩa là mẹ trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới đều bắt đầu bằng âm m – thường là âm đầu tiên mà một em bé có thể nói.

    Và thật thú vị, chúng ta cũng có những loại ngôn ngữ dường như không có bất kỳ một ngôn ngữ tổ tiên nào, có vẻ như không bắt nguồn từ đâu. Tiếng Basque của những người sống ở khu vực miền núi giữa Tây Ban Nha và Pháp là một ví dụ. Ngôn ngữ này được cho là còn lâu đời hơn cả PIE, và tương truyền đó là ngôn ngữ được Adam và Eva nói với nhau trong Vườn Địa đàng.

    Tính linh hoạt và phức tạp của ngôn ngữ cũng khá thú vị. Tiếng Anh gần đây đã vượt qua con số 1 triệu từ vựng, dù hầu hết chúng ta chỉ sử dụng khoảng 25.000 từ. Cứ mỗi tiếng đồng hồ lại có thêm một từ tiếng Anh mới xuất hiện, dù tốc độ này đang dần chậm lại. Ngày xưa, một người như Shakespeare có thể sáng tạo ra ba từ trước khi ăn bữa sáng. Giả thuyết hàng đầu về nguyên nhân làm giảm tốc độ sáng tạo từ mới trong thời gian gần đây chính là công cụ tự động kiểm tra lỗi chính tả trên các thiết bị điện tử, một tính năng đơn giản là không thỏa hiệp với các kiểu chơi chữ. Nếu không muốn gửi một email có nhiều đường gạch đỏ dưới những từ mình viết ra, tốt hơn hết là chúng ta chỉ sử dụng những gì đã được liệt kê trong từ điển.

    Trong Thời đại Thứ Nhất này (quãng thời gian xấp xỉ 100.000 năm mà chúng ta sống như những thợ săn và người hái lượm biết sử dụng cả ngôn ngữ và lửa), cuộc sống đã diễn ra như thế nào? Tổng dân số thời bấy giờ chỉ là khoảng 200.000, nên tuy con người không phải là loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng sự sống còn của chúng ta vẫn chưa có gì chắc chắn. Dù hiển nhiên là có nhiều tập quán khác nhau, nhưng đa số người thời đó đều sống theo tập thể, phần lớn là kiểu xã hội không phân cấp. Đến tận năm 1700, trên thế giới vẫn còn hơn 50 triệu người săn bắt và hái lượm sống rải rác khắp nơi, nhờ vậy chúng ta có dịp quan sát trực tiếp về những người săn bắt và hái lượm thời hiện đại. Ngay cả ở hiện tại, nhiều ước tính đáng tin cậy cho thấy trên toàn cầu vẫn còn tồn tại hơn 100 bộ lạc săn bắt hái lượm không tiếp xúc với thế giới hiện đại, với tổng số người có thể lên đến hơn 10.000.

    Nếu các bộ lạc săn bắt hái lượm thời hiện đại có thể cho ta biết bất cứ điều gì về cuộc sống của con người trước khi có nông nghiệp, thì đó chính là thực phẩm từng không phải là một cái gì đó hiển nhiên và mỗi người đều chỉ cách cái chết vài ngày đổ bệnh. Do vậy, chủ nghĩa tập thể có thể đã hình thành từ những cá nhân cảm thấy cần giúp đỡ người khác vì lợi ích của bản thân họ: ngay cả những người khỏe mạnh nhất trong một xã hội đều sẽ có lúc cần được giúp đỡ. Vì lý do này, những tập thể biết chia sẻ với nhau thường có khả năng thích ứng tốt hơn những quần thể người sống ích kỷ. Dù sao đi nữa, tích lũy của cải vào thời đại này liệu có ích gì? Người ta không có bất kỳ tài sản nào ngoài mớ ấu trùng họ vừa tìm được trong ngày, thậm chí nếu có của cải thì họ cũng không cách nào để cất trữ. Họ chật vật từng ngày, cố gắng kéo dài sự tồn tại yếu ớt của mình, khi mà chỉ một mùa đông tồi tệ hoặc một con ma mút nổi loạn cũng đủ để kết liễu họ.

    *

    Những người hiện đại ủng hộ Rousseau¹ có khuynh hướng nhìn về quá khứ qua một lăng kính màu hồng lãng mạn và tiếc nuối một thời đại đơn giản hơn, khi con người sống hòa hợp với thiên nhiên và không bị tha hóa bởi những cạm bẫy của thế giới hiện đại. Nếu thật sự phải quay lại sống trong thời cổ đại đó, có lẽ hầu hết chúng ta sẽ không dám kết luận đó là những ngày tháng đẹp đẽ. Chủ yếu là vì thời đại xưa rất tàn bạo. Dựa vào các nghiên cứu trên xác người tiền sử được khai quật, nhà tâm lý học Steven Pinker của Đại học Harvard ước đoán cứ sáu người săn bắt hái lượm cổ thì có một người bị giết hại dã man bởi một người khác. Trong khi đó, tỷ lệ tử vong ở thế kỷ 20 đẫm máu với tận hai cuộc thế chiến chỉ là một trong ba mươi người. Từ những dữ liệu này, chúng ta có thể tự tin nói rằng cuộc sống ở thời săn bắt hái lượm rất ngắn ngủi, vất vả và khắc nghiệt. Nhưng đó chính là giai đoạn nền tảng của nhân loại; và với sự xuất hiện của ngôn ngữ, chúng ta đã bắt đầu một hành trình đưa ta đến ngày hôm nay.

    ¹ Jean-Jacques Rousseau (1712 - 1778) là nhà triết học người Pháp thuộc trào lưu Khai sáng. Triết lý chính trị của ông có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội và của chủ nghĩa dân tộc. Ông tin rằng bản chất con người là tốt nếu sống ở trạng thái tự nhiên và thường bị tha hóa bởi xã hội của họ.

    2

    Thời đại Thứ Hai:

    NÔNG NGHIỆP VÀ ĐÔ THỊ

    Sau khoảng 100.000 năm con người có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ trong sinh hoạt hằng ngày và kiếm sống bằng săn bắt hái lượm, một thay đổi quan trọng khác đã diễn ra, tác động sâu sắc đến nhân loại và xã hội: con người phát minh ra nông nghiệp. Thời đại Thứ Hai chỉ mới bắt đầu từ khoảng 10.000 năm trước, khi hành tinh này có khoảng 4 triệu người, nhiều hơn một chút so với dân số Los Angeles ngày nay. Suốt quãng thời gian 90.000 năm chuyển tiếp đó, loài người chỉ có khoảng bốn hoặc năm lần nhân đôi dân số. Đó là một sự tăng trưởng quá chậm, cho thấy tình trạng bấp bênh trong sự tồn vong của loài người.

    Tương tự ngôn ngữ, nông nghiệp cũng là một công nghệ; và tương tự ngôn ngữ, nông nghiệp cũng mang đến hàng loạt tiến bộ khác. Điều đầu tiên phải kể đến là đô thị, xuất phát từ việc con người cần định cư một chỗ mới có thể làm nông nghiệp. Đây là một thông lệ gần như hoàn toàn mới. Những thành thị đầu tiên như Çatalhüyük, Jericho và Abu Hureyra… thường nằm gần hệ thống sông ngòi để dễ tiếp cận nguồn nước và đất trồng trọt màu mỡ, trong thành có các khu chợ, nhà cửa và đền thờ. Chính trong Thời đại Thứ Hai này, con người bắt đầu biết dùng thuốc phiện, cá cược bằng xúc xắc, trang điểm và đeo vàng.

    Các thành phố thúc đẩy sự giao thương và trao đổi ý tưởng, nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta gắn cuộc sống của mình với sự cố định hoàn toàn. Nhà cửa là để định cư lâu dài, chứ không phải để sống tạm bợ như trước. Chúng ta cải tạo đất đai bằng đê điều và ruộng bậc thang. Chúng ta xây hàng rào. Chúng ta chôn cất người đã mất và đánh dấu vị trí bằng mồ mả để tiện viếng thăm về sau. Những tập quán này cùng với hàng chục phong tục khác đã triệt tiêu lối sống du cư của con người, và không gì có thể đảo ngược tiến trình này.

    Tiến bộ công nghệ tiếp theo xuất hiện cùng nông nghiệp là sự phân công lao động. Dù không có vẻ gì là một ý tưởng quá cao siêu, nhưng tác động của sự phân công lao động chính là một nhân tố then chốt trong lịch sử nhân loại. Khi có sự phân công lao động, thay vì làm tất cả những việc cần thiết để sinh tồn thì mỗi cá nhân chỉ cần tập trung vào những phần việc cụ thể hơn, nhờ vậy mà đạt được hiệu quả cao hơn và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đáng kể. Bên cạnh những tiến bộ về thương mại và công nghệ, sự phân công lao động là một trong ba bữa trưa miễn phí (free lunch) theo lý thuyết kinh tế truyền thống, tức là một trong những cách để gia tăng sự giàu có của tập thể mà không cá nhân nào phải làm việc chăm chỉ hơn.

    Thật ra, nông nghiệp không trực tiếp tạo ra sự phân công lao động. Nông nghiệp chỉ thúc đẩy sự hình thành đô thị, và đô thị sau đó mới tạo ra sự phân công lao động. Nhưng quá trình này đã diễn ra như thế nào? Sự phân công lao động phát huy tác dụng tốt nhất khi có nhiều người sống gần nhau. Những nông dân sống xa cộng đồng không thật sự có điều kiện để tập trung vào một việc nhất định, họ buộc phải làm được mọi việc nhưng lại không chuyên việc nào cả. Hãy thử tưởng tượng bạn sẽ trở nên kém năng suất đến mức nào, nếu thay vì chỉ đảm đương công việc hiện tại mà chắc hẳn bạn đang làm khá tốt thì bạn phải tự tay làm mọi thứ, từ tự may quần áo đến tự làm ra xà phòng. Các bằng chứng khảo cổ được khai quật từ những thành phố lâu đời nhất cho thấy nhiều loại nghề nghiệp khác nhau đã xuất hiện vào đầu Thời đại Thứ Hai. Con người chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ kinh tế đáng kinh ngạc nhờ quá trình chuyên môn hóa, diễn ra khi chúng ta bắt đầu sống gần rất nhiều người khác.

    Sự phân công lao động khiến việc hợp tác của con người từ tự nguyện trở thành bắt buộc. Bài luận nổi tiếng I, Pencil (tạm dịch: Tôi, cây bút chì) của nhà kinh tế học Leonard Read đã bàn về việc ngay cả khi không một cá nhân đơn lẻ nào biết cách làm ra một cây bút chì đơn giản thì bút chì vẫn có thể được làm ra, vì hàng ngàn người thuộc hàng trăm lĩnh vực khác nhau – những người có lẽ không bao giờ có cơ hội gặp mặt nhau – đã cùng nhau làm những việc nhỏ nhưng cần thiết để tạo nên cây bút chì. Sự phân công lao động đã mang đến cho chúng ta hầu như mọi thứ chúng ta có ngày nay. Nếu không có sự phân công lao động, loài người có lẽ đã diệt vong.

    Vũ khí phục vụ cho chiến tranh là một công nghệ xuất hiện cùng sự hình thành đô thị. Vũ khí cần được phát minh vì đô thị là nơi tập trung nhiều của cải và cần được bảo vệ. Những thành thị hình thành sớm nhất thường được đầu tư rất nhiều nhân lực và vật lực để xây tường bao quanh – bằng chứng cho thấy nguy cơ bị tấn công là có, hoặc ít nhất là được tin như vậy.

    Chính từ nông nghiệp và thành thị, con người bắt đầu tư hữu đất đai. Con người, vốn có bản năng bảo vệ lãnh thổ, chắc hẳn đã luôn bảo vệ những khu đất không có ranh giới rõ ràng mà chúng ta cho là thuộc sở hữu của mình; nhưng các bằng chứng khảo cổ cho thấy từ đầu Thời đại Thứ Hai, những ranh giới để phân định quyền sở hữu đất đã được xác định khá rõ ràng. Triết gia Jean-Jacques Rousseau cho rằng thông lệ này chính là điểm bắt đầu của thế giới hiện đại ngày nay. Ông nói: Người xứng đáng được gọi là cha đẻ của xã hội dân sự chính là người đầu tiên dựng rào quanh một mảnh đất, tuyên bố ‘đây là đất của tôi’ và phát hiện người ta đủ ngây thơ để tin lời tuyên bố đó.

    Nông nghiệp và đất tư hữu đã chấm dứt sự bình đẳng kinh tế của Thời đại Thứ Nhất. Sự bất bình đẳng vốn có của con người về năng lực, gốc gác và vận may đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng về tích lũy của cải. Mặc dù tiền tệ như ngày nay vẫn chưa xuất hiện, nhưng ý thức về sự giàu có chắc chắn đã có. Con người có thể sở hữu đất đai, gia súc và bồ chứa. Của cải có thể được tích lũy vô hạn định và không có một giới hạn nào đối với việc một người có thể giàu đến cỡ nào. Vì đất đai có thể được dùng để trồng trọt và gia súc thì có thể sinh sản, nên của cải ở thời đại này chủ yếu là các sản phẩm được tạo ra. Do đó, tài sản có xu hướng tăng lên. Và vì có thể được truyền từ đời này sang đời khác, nên tài sản có thể được tích lũy và nhân lên nhiều lần qua các thế hệ.

    Đáng buồn thay, chính trong Thời đại Thứ Hai này, tình trạng chiếm hữu nô lệ đã xuất hiện. Chiếm hữu nô lệ hầu như không có

    Enjoying the preview?
    Page 1 of 1